Sỏi tiết niệu trong bệnh Goutte
Goutte là bệnh rối loan chuyển hoá thường gặp ở đàn ông lứa tuổi trung niên. Một trong những biến chứng nguy hiểm và hay gặp của bệnh Goutte là gây ra sỏi tiết niệu do nồng độ acide uric tăng cao và toan hoá nước tiểu.
Sỏi do tăng acide uric trong bệnh Goutte thường có màu vàng cam, trơn nhẵn, rất cứng và rất hay tái phát. Khác với các loại sỏi tiết niệu khác có thể phát hiện dễ dàng qua phim chụp Xquang thông thường với hình cản quang, sỏi do acide uric không cản quang, nghĩa là không thể nhìn thấy được qua phim chụp Xquang thông thường.
Chính vì đặc điểm không cản quang và rất cứng nên sỏi tiết niệu trong bệnh Goutte hầu như không thể điều trị bằng phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể được. Trong trường hợp cấp cứu do cơn đau quăn thận, phương pháp nội soi niệu quản là lựa chon duy nhất. Điều trị triệt căn sỏi tiết niệu trong bệnh Goutte cơ bản là điều trị nội khoa bao gồm điều trị bệnh Goutte và dùng thuốc gây tan sỏi.
Đặc điểm Sinh lý – Hoá học của sỏi acide uric
- Vai trò của pH trong việc làm tan sỏi acide uric:
pH nước tiểu trong bệnh Goutte thường rất thấp từ 5-6. Việc nâng độ pH nước tiểu lên cao cho phép làm tan sỏi: Bắt đầu ở pH 6,5: 85% sỏi acide uric sẽ tan. Tỷ lệ này lần lượt tằng lên 90% với pH 6,8 và 95% nếu pH 7,2. Khi pH nước tiểu là 8 thì 100% sỏi acide uric sẽ tan biến.
- Vai trò của sự bài tiết nước tiểu đối với độ pH và nồng độ acide uric:
Nếu bài tiết nước tiểu 1000ml/ngày, với nồng độ acide uric 300mg/l và pH nước tiểu 5,3 thì cũng trên bệnh nhân đó khi bài tiết nước tiểu tăng lên 2-3l/ngày thì độ pH nước tiểu có thể lên tới 6,8 và nồng độ acide uric giảm xuống 100mg/l. Như vậy, việc tăng lượng bài tiết nước tiểu bằng việc uống nhiều nước (>2l/ngày) rất quan trọng trong việc làm tan sỏi.
Điều trị nội khoa triệt căn sỏi acide uric
Nguyên tắc điều trị gồm 2 điểm chính
- Tăng bài tiết nước tiểu.
- Kiềm hoá nước tiểu.
Tăng bài tiết nước tiểu
Phải đạt được ít nhất là 2,5l/ngày. Số lượng nước uống từ 2-3 l/ngày tuỳ theo thời tiết, mức độ hoạt động, trọng lượng cơ thể.
Kiềm hoá nước tiểu
+ Mục đích là giữ độ pH nước tiểu thường xuyên từ 6,5 – 7,5.
+ Các dạng thuốc gây kiềm hoá nước tiểu thường dùng:
- Nước uống giàu bicarbonate de sodium có sẵn trên thị trường (nước Vichy): chỉ nên dùng trong thời gian ngắn khoảng 1 tháng. Cần chú ý vì ở bệnh nhân có rối loạn chuyển hoá, việc đưa vào cơ thể quá nhiều muối natri có thể gây tích nước mặt khác , tăng natri trong nước tiểu sẽ làm tăng can-xi, dễ tạo sỏi.
- Bicarbonate de potassium: Đây là loại thuốc được đặt pha chế theo đơn của bác sĩ. Thường dùng từ 6-8g/ngày.
- Citrate de potassium: Đây là loại thuốc được đặt pha chế theo đơn của bác sĩ. Thường dùng gói 3 gr. Mỗi ngày uống 6-8 gr. Đầu tiên nên pha loãng 1 gói 3 gr trong 1 lít nước uống rồi sau đó pha 2 gói/1lít nước để uống. Cần biết rằng thuốc này khó dung nạp, nên uống trong bữa ăn để việc hấp thu qua đường tiêu hoá dễ dàng hơn.
Chú ý: Các thuộc này rất ít tác dụng đối với bệnh nhân suy thận và với trường hợp có rối loan chuyển hoá nặng.
+ Sự thay đổi của độ pH nước tiểu theo thời gian trong ngày
Theo nghiên cứu Cameron, đối với người ăn 3 bữa sáng - trưa - tối trong ngày dù không có dùng thuốc kiềm hoá, pH nước tiểu sẽ tăng lên rõ rệt sau bữa ăn và sau đó hạ thấp khi đói vào thời điểm giữa 2 bữa ăn. Nếu uống chất kiềm hoá trong khi ăn, pH nước tiểu không hạ thấp ngay cả khi đói trong buổi sáng và chiều. Tuy nhiên, vào nửa đêm về sáng, pH nước tiểu lại hạ thấp.
Do vậy, để duy trì độ pH nước tiểu ổn định trong cả ngày và đêm, ngoài việc phải uống thuốc trong 3 bữa ăn, nên uống thêm vào lúc thức dậy trong đêm.
Nếu không bị tăng huyết áp và chức năng thận bình thường, nên uống 750 đến 1000ml nước Vichy/ngày. Theo dõi pH nước tiểu ít nhất 3 lần/ngày để bổ tăng hoặc giảm lương Vichy nếu cần thiết và luôn uống thêm 350 ml trước khi ngủ
Nếu có cao huyết áp, nên dùng Citrate de potassium hoặc Bicarbonate de potassium. Cần hỏi thêm ý kiến của bác sĩ chuyên khoa thận.
Theo dõi kết quả điều trị
+ Theo dõi pH nước tiểu: Trong thời gian đầu cần đo pH nước tiểu ít nhất 3 lần trong ngày vào 10 giờ, 15 giờ và trước khi ngủ. Kiểm tra lên tục trong 1 vài tuần để tìm ra quy luật về số lượng nước Vichy cần uống để luôn giữ được pH nước tiểu ổn định từ 6,5 đến 7,5. Sau đó chỉ cần đo pH nước tiểu 1 lần/ngày vào buổi sáng, thậm trí 1 lần/tuần. Nên ghi lại các số liệu về số lượng nước tiểu và độ pH nước tiểu của các lần kiểm tra để tiện theo dõi diễn biến điều trị. Lưu ý không để pH nước tiểu>8 để tránh nguy cơ nhiễm trùng tiết niệu và phosphatisation sỏi.
+ Theo dõi Xquang: Do sỏi acide uric không cản quang nên việc thêo dõi hiệu quả tan sỏi phải dựa trên CT hoặc siêu âm. Thông thường, nếu giữ ổn định pH nước tiểu 6,5 – 7,5 sỏi sẽ tan trong khoảng 1 tháng.
Điều trị dự phòng
Chủ yếu là thực hiện nghiêm ngặt chế độ ăn uống
- Hạn chế ăn thịt ( 1g/kg/ngày).
- Hạn chế nucleoproteine và purine (thịt thú rừng, thịt đỏ, nội tạng động vật…).
- Uống thêm allopurinol nếu uric/nước tiểu cao.
- Giảm sử dụng các loại đường tiêu nhanh (soda, mứt, bánh ngọt…)
Bác sĩ Lê Sĩ Trung chuyên điều trị các bệnh tiết niệu: